Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tỏa 10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da 11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà 12.Nam mô na ra cẩn trì 13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 14.Tát bà a tha đậu du bằng 15.A thệ dựng 16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa) 17.Na ma bà dà 18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha 19.Án. A bà lô hê 20.Lô ca đế 21.Ca ra đế 22.Di hê rị 23.Ma ha bồ đề tát đỏa 24.Tát bà tát bà 25.Ma ra ma ra 26.Ma hê ma hê rị đà dựng 27.Cu lô cu lô yết mông 28.Độ lô độ lô phạt xà da đế 29.Ma ha phạt xà da đế 30.Đà ra đà ra 31.Địa rị ni 32.Thất Phật ra da 33.Giá ra giá ra 34.Mạ mạ phạt ma ra 35.Mục đế lệ 36.Y hê di hê 37.Thất na thất na 38 A Ra sâm Phật ra xá lợi 39.Phạt sa phạt sâm 40.Phật ra xá da 41.Hô lô hô lô ma ra 42.Hô lô hô lô hê rị | 43.Ta ra ta ra 44.Tất rị tất rị 45.Tô rô tô rô 46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ 47.Bồ đà dạ bồ đà dạ 48.Di đế rị dạ 49.Na ra cẩn trì 50.Địa rị sắc ni na 51.Ba dạ ma na 52.Ta bà ha 53.Tất đà dạ 54.Ta bà ha 55.Ma ha tất đà dạ 56.Ta bà ha 57.Tất đà du nghệ 58.Thất bàn ra dạ 59.Ta bà ha 60.Na ra cẩn trì 61.Ta bà ha 62.Ma ra na ra 63.Ta bà ha 64.Tất ra tăng a mục khê da 65.Ta bà ha 66.Ta bà ma ha a tất đà dạ 67.Ta bà ha 68.Giả kiết ra a tất đà dạ 69.Ta bà ha 70.Ba đà ma kiết tất đà dạ 71.Ta bà ha 72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73.Ta bà ha 74.Ma bà rị thắng yết ra dạ 75.Ta bà ha 76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77.Nam mô a rị da 78.Bà lô kiết đế 79.Thước bàn ra dạ 80.Ta bà ha 81.Án. Tất điện đô 82.Mạn đà ra 83.Bạt đà gia 84.Ta bà ha. |
***Nam Mô Quan Thê Âm Bô Tát***
Tên của bài kinh này là Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni cua Phật
Quán Thế Âm. Gọi tắt là Chú Đai Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415
chữ.
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
8. Tát bàn ra phạt duệ
CHÚ
GIẢI
(Giảng giải từng câu của HT Tuyên Hóa)
(Giảng giải từng câu của HT Tuyên Hóa)
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng
ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca
Mâu – ni Phật. Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất
ít người biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một
pháp hội nhưng chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô, phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch
là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn
thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư Phật”. Cái bản ngã của chính mình
không còn nữa. Mà con xin dâng trọn vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư
Phật cho con sống thì con sống; bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin
vào chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.
Còn
“Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý
nghĩa của Nam
– mô.
Còn
“Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình
trở về nương tựa vào đức Phật.
Nói
tổng quát. Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận
trong khắp mười phương”.
Đó
chính là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì
niệm. Mặc dù đó là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy
y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại,
vị lai. Khi quí vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y
với Tam Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho
tất cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y,
kính lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
Quí
vị có biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị
nên biết rằng, trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo
và Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian
mà còn cao quý đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời
phi tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật
pháp nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta
cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm
kiên cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng
khi đã quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành,
tương ứng với lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị
vẫn còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm
dục, nói dối, nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì
quí vị không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc
sinh). Bở vì trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói:
“Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa
vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi
muốn…”
Quí
vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành
những việc thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn
tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
Đạo
Phật không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin.
Nếu có niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn
ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ
rơi vào hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân
chính quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa
đổi mọi lỗi lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm
thuần túy những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt
được lợi ích thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có
nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”.
Khi
quí vị trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí
vị. Lúc gặp tai chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và
nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai
pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da cũng còn được gọi là
“Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị đã từng gieo trồng nhiều
thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng
trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng
ích pháp”.
Quí
vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi:
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn điều
gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị
không có con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá
ra dạ da sẽ sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành,
không phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là
trong ba năm. Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay
niệm Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì
niệm được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu
tiên Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không
thể nghĩ bàn.
Câu
chú này cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể
hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy
vậy, câu chú này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu
chú thuộc trong “Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi
đều đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
Vậy
nên, câu chú Nam
mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường
được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm
lại, trong câu Nam mô hắc ra
đát na đá ra dạ da, thì Nam
mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa
là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa
toàn câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam
Bảo vô tận vô biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải
cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Vì
sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận.
Chư Phật trong thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là
vô cùng vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam
mô a rị da
Nam mô như đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm,
tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và chư Bồ – tát”.
A rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa
lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có nghĩa là kính lễ các bậc Thánh
giả, người đã xa lìa tất cả các pháp bất thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô
- giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn
được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát
đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách
rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ
– tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để
cứu độ một cách tự tại.
4. Bồ đề tát đỏa bà da
Mọi người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn
là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát đỏa có nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng
như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải thoát.
Bồ Đề tát đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ – tát đã
tự giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ giải thoát như
mình.
Bà da có nghĩa là “đảnh lễ”.
Da có nghĩa là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ
ai? Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát cho chính mình rồi, còn
giúp cho người khác được giác ngộ giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha tát đỏa bà ha
Ma – ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng:
hoàn hảo.
Ma – ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát
tâm bồ đề rộng lớn.
Ma – ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có
rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma – ha với nghĩa là Thắng: tức nói đến những
người đã phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu viên mãn, được nhiều
lợi lạc rất thù thắng.
Tát - đỏa nghĩa của chữ Tát - đỏa trong câu chú
này không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú trên, Tát - đỏa có
nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên kia. Có nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú
này. Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là người can đảm, không sợ hãi. Cũng
có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất siêng năng.
Bà - Da Hán dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là:
“Con xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là những người rất dõng mãnh, rất
tinh tấn, không bao giờ sợ hãi, và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát
này.”
Các vị đại Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho
chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng sanh khác được giác ngộ và
giải thoát như mình.
6. Ma ha ca lô ni ca da
Ma – ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên
đã giảng.
Ca – lô Hán dịch là “Bi”.
Ni – ca nghĩa là “Tâm”.
Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại
bi”.
Da có nghĩa là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn
câu chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm
Đà - la – ni.”
7. Án
Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả
mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.
Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong
mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường
xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm
xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần
chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận
dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm
trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát
Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn
Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo
giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát
nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp
chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu
hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì
vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý
chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó
một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có
thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về
giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là
người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không
đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải
gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì quá khứ
quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được
sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi
diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ án thì tất cả các
loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc
lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh
mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì.
Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra, Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí
vị trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến làm Hộ pháp cho quí
vị.
Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh
tôn.
Nguyên câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự
tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường
niệm là “Shù”.
Số Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì?
Pháp này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng thắng sinh”. Có
nghĩa là không có gì vượt trội hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp
này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn có một cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối
thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ trải qua sau khi chứng
được Thập địa của hàng Bồ – tát.
Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số
đát na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng
nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có
nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia trì của Tam bảo.
Đát tả còn có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy
các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần đến mà dạy bảo chúng
theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y
mông a lị da
Xưa nay dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một
người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính mình. Người tu hành không cần
phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính mình.
Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy
y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô còn có nghĩa là đem tự ngã của chính mình
thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương. Tức là thể nhập vào Tam
bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương.
Tất kiến lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem
hết toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa y mông có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã
của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình,
nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví
như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí
vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì
xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục,
là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không
nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhân và
không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải
hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy.
A lị da ở trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh
giả”. ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của Thánh giả. Vô lượng
vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong
vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất
nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ giảng rõ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra
lăng đà bà
Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán
Thế Âm.
Bà
lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh
hiệu này không nhất định phải là Bồ – tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự
Tại hay Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đã đạt được tự tại rồi, thì quí vị chính
là Bồ – tát Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài
chúng sinh, thì quí vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã
thể nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí vị là hóa thân của Bồ
Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này thì chính
tôi cũng là hóa thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng
đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm
thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là
“hoa trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một
cung điện được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát
Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu:
vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng không phải ai
cũng đến được nơi cung điện này.
Bà
lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng
đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
12. Nam
mô na ra cẩn trì
Trong
câu chú này, Nam
mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na
ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn
trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo hộ,
che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem
đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm
được đề cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ theo mười loại
tâm này mà công phu tu tập.
Na
ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất,
nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm
Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề.
Câu
chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì
trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy
trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị
không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là
“Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc
chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết thì trước tiên tôi
phải giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa
của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là
hào quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu
mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là
“Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực
thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô
tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh
sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy,
tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng
giải thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí
vị rõ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách
rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà nói, không mấy người thể
nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của
thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi
thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi
phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe
được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.
Thay vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị
hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết? Nếu quí vị biết
được lý do tại sao mình không biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết.
Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại sao quí vị không biết, thì quí
vị cũng không thể nào rõ được lý do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên
sự kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy
làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao
anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất
gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật
pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”,
thì quí vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị
đã hiểu được tại sao mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại
biết được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được
dự pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện
căn của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập
Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư
Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang
tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng
không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở
Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”.
Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng
cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả
lời rằng: “Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu
không chịu tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu
hành trì thì làm sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần
phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng
cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề
tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành
chánh giác.
Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh
giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao
có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được
Phật quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu
không chịu tu hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu
tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được
điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên
biếng nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành
tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể
nào có được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai
ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn
chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí
vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với quí vị
cũng chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt
trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp
giới…
Trong Phật pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày
cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu.
Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không
tin sâu và không hành trì thì điều tôi giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn
nữa sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh
tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị
mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một
ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình.
Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay
“trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó
là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ.
Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa
chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức
là không còn vô minh.
Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có
được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại
quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự
tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô
minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây
chính là trí tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có
Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song
thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người
phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy
một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài
nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như
móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục
thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên
mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều
rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì
trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các
Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư
đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời
thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn
nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô
dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một
việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi
nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông
đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những
mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi
người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là
cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con
gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn
với cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh
làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến
hóa khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do
trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai
ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không
còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một
bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm
sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo
cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo
rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì
người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà
lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà
ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà
ta than khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho
nó
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi
trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì
vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà
tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa
cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là
chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết
được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông.
Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là
bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải
đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn
như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong
tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới,
có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê
này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn
nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi
dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót,
phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang
đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính
là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt
trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu
thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến
dự đám cưới này.
Nhìn
trong bếp, Ngài nói:
“Lục
thân bị nấu trong nồi”.
Chính
là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều
để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi
chiên nấu trở lại.
Ngài
nói tiếp:
“Mọi
người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi
người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình
rằng:
“Trông
thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay
trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền
sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể
hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau
ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi
nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người
lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu
quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay
của ngân hàng vậy.
Tôi
nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo
cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi
đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi
chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu
thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới
nhau.
Quí
vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người
chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì
trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi,
cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một
hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
-
Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao.
Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương
quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và
chửi mắng con hoài vậy?
Thiền
sư Chí Công đáp:
-
Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước,
bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục
nó phải kéo cối xay bột.
Ông
chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm
người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng.
Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường
đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với
nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất
giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi
người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này
để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc
đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau
rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.
Người
phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà,
ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông
ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng
lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy
lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí
Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong
ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh,
thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông
chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế
nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã
tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh,
là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời
này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu
được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách
từ bỏ những việc ác.
Còn
một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài
rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon
nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một
mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác
anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là
một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư
dùng.
Khi
người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
-
Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người
đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
-
Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài
liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một
con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay
lên được.
Thiền
sư mới bảo:
-
Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay
được?
Chính
là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện
này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài
chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu
bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ – tát, không làm
chuyện này được.
Thiền
sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng
rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại.
Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền
sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết
không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện
này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng
ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận
biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng
thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi
ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ – tát thì
chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm
này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự
giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha
hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này
vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên,
câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có,
an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được
thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh
viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa
là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh
và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo
phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến
thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một
vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô
kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với
pháp và ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như
dòng chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”.
Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. Còn có nghĩa là “vô tỷ
giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng
cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất
kỳ người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô
tạp loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là
pháp bát nhã tâm của Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại tâm này là tướng của Đà - la – ni, chúng
ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu
tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo
nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát
đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm
Bồ – tát”.
Na ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”,
là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu
tượng cho bản tánh. Còn “khai sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có
nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi
là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ – tát.
Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống
như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba – la – mật - đa, thị
đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?”
“Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong
mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế
hữu”.
Câu chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát,
xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là thân quyến ở cõi trời
của chúng con và là người bạn ở cõi thế gian này của chúng con, để hộ trì cho
mọi thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười
phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha - án
Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã
Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”.
Còn dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn
này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên.
Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết
ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng
sinh.
Đát điệt tha lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn
tu học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của “Sở vị”.
Chữ án như đã nói ở trước, khi quí vị trì niệm trì
niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính, lắng nghe người niệm
chỉ giáo. Chữ án còn có công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A bà lô hê chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa
là “quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh oqr thế gian. Trong thế
gian có nhiều loại âm thanh. Bồ – tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu
than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian khi họ không thể vượt qua nổi những
khổ nạn.
20. Lô ca đế
Lô ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp
lại hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát dùng trí tuệ để quán sát
âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm.
21. Ca ra đế
Ca ra đế dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi
rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và thất vọng. Người mà
có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế
còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho
mọi chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát nguyện làm những việc khó làm như
hành Bồ – tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị
trì tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện: “Con nhất quyết thực
hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng
sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đã dạy mà tu hành”.
Di hê rị còn có nghĩa là “Y giáo phụng hành”.
Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán Thế Âm của tự tâm để
thực sự tu trì.
23. Ma ha bồ đề tát đoả
Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được
đạo lý chân chính.
Tát đoả. Hán dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này
có nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề rất dũng mãnh và phát
tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề
hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống bồ - đề đã gieo được nảy mầm, rồi
mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị Vô thượng bồ - đề.
Đây là ý nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả.
Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên mãn của chư vị Bồ – tát
là do định huệ song tu. Khi Định đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng.
Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì Bồ – tát Quán Thế Âm đã đạt được
định lực viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt. Vì Bồ – tát đã đạt được trí
tuệ viên mãn, nên Ngài mới đạt được định lực lắng trong. Không có Định thì
chẳng có Huệ và không có Huệ thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không
hai là vậy.
Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được
trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô
cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều
hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều
thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả
vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công
hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng
của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản
thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các
Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân
hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng
sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho
chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh.
Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn
tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như
vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp
ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân
Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để
giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện
thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá
chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện
thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ –
tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng
sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó
là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được
quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự
thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”.
Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc
cho mọi người.
Bằng cách hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng
đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm
vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ:
“Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy?
Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư
có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo
chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm
lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự
lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là
“Nhất thiết lợi lạc”.
Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử
dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng
có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ
– tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ
thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp
chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm
vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha cho anh ta trở về dương
gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người
chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành
tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng
giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi
thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ.
Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được
học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so
sánh được.
Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi
loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này
là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua
cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp
ấy mà thôi.
Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng:
“Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử
dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ
thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi chết, như ng đến khi quí vị phải
chết, thì chẳng có người nào giúp quí vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở
Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp
chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một
chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa
Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc
trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ
sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại
của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh
trầm trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng
bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co
quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ
Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con
trai của bà nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên
chặt tay cúng dường chư Phật. Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được
lành bệnh”.
Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay
anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự
sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu
nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai chống lại, nhưng người kia không để cho
anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng
cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp
đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được
giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi
chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi,
cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người.
Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không
ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển
hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong
công phu.
Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền
đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho
con thật khó xử”.
Hoà
thượng trụ trì bảo:
-
“Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà
thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe
những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
-
Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi
bảo chàng trai:
-
Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh
ta nói:
-
Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi
đáp:
-
Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc
ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ
chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta
quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
-
Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi
nói:
- Có
lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu
ta đáp:
-
Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi
nói:
- Có
lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay
khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn
quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng
trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để
cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta
được sống”.
Tôi
gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay,
chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
-
Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng
trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta
chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ
ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà
ta trả lời:
-
Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm
không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ
chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng
chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa
đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ
đói.
Người
con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
-
Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà
đáp:
-
Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc
đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có
phải vị sư này không?
Bà
nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
-
Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc
đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi
thưa:
-
Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin
được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết
sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về
sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ.
Tôi bảo:
-
Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ
đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người
ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã
hết bệnh chưa?
Thật
là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó
là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở
Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo
rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y
Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông
thưa:
-
Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi
bảo:
-
Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông
rất mừng vội đáp:
-
Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi
tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
-
Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến
khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu
quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị
lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt
được chuôi dao của chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống
như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ
Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó
lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy
nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công
phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác
nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai
câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”.
Đó là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi
việc đều được tốt lành như ý.
“Như
ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí
vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp
này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu
thủ nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu
quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành
tựu rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa.
Quí vị luôn luôn giàu có và được vô lượng phước lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối
thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự
tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận.
Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa
là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương
hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó
có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là
“tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây ta chính
là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.
Nay chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật
pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi hai
thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm
chú Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay
mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì
bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người
có chân mà không có tay, không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để
liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn
pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo
diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú
Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống
như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả. Quí vị đã có đủ cả thân
thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên
phước đức được.
Bảo loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi
quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quý vị tác
pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi
nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm
thanh này đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ
quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi là sự kiết giới.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên
chí thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này. Rồi
sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm
thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng
căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.
Yết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”,
cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc
cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người cũng chính là tạo công
đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải
thoát cho mình và giác ngộ giải thoát cho người khác.
Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh.
Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng quí vị đang cầm
trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú
Yết mông yết mông...
Không những quí vị trì tụng chú mà còn hành trì
mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể tạo nên mọi công đức.
Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì
bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh.
Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ
nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn
lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có
thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được
trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ trì.
Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán
thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt
qua biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.
Khi đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ
đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia,
tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ
được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ
chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó
là định lực, khi quí vị có được định lực chân chánh thì có thể vãng sanh ở cõi
tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu
pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh
thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt Già Ra đế. Hán dịch là “Quảng bác trang
nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”. Nếu quí vị tu
tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp này thì quí vị có thể vượt qua biển khổ
sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không công phu hành trì ấn pháp
bàng bi thủ nhãn này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải
thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng
đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất
trên đời.
Đây là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có
công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này
rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu
quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu quí vị hành trì ấn pháp này thì vô
hình trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học
tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và giảng giải rõ
ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.
Đà là đà la là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong
tịnh bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước
cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh
tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi
tai nạn ấy.
Đà la đà la. Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là
tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ
nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả
ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra
khỏi tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là
“thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết
tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.
- “Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều
được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.
- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai
nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt
là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long bát bộ
đến hộ trì cho hành giả. Nếu quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này,
thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió,
họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa,
mưa gió sẽ hết ngay.
Quí vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật!
Đó chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất cả chỉ là vì quí vị
không tin. Không có niềm tin và không ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu
nổi.
Nếu muốn, quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ
Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật
tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong
muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy
ra. Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay
không?
Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu
tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ. (Những ai đã đến Đài Loan năm 1969
để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài
Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53 ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan
để thọ giới. Cả tự viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không
còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói
ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa
hiện ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích
của người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó chẳng phải là gì khác, chính là năng
lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long,
đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh
của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu ấn pháp này và đã thông thạo thiết
câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa
liền.
Quí vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như
vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi đang nói với quí vị
bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa.
32. Thất phật ra da
Mỗi khi quí vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp
giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật ra da là có một
luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra da được dịch là “phóng quang”. Còn
dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như trong chữ
“Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán chiếu thâm sâu rồi mới
được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu, thì quí vị sẽ không
đạt được năng lực tự tại.
Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà
công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào bên
trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”. Ông
chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay không? Quí vị có làm chủ được
mình hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ
chơn tâm thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện
hữu, có nghĩa là quí vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa là
quí vị không có được tự tại.
Sự phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí
vị đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được
năng lực tự tại, thì không thể phóng quang được.
Thất Phật ra da cũng được dịch là “Hoả diệm
quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh từ
tập khí phiền não, như quí vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng
không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn nộ, căm hờn của quí vị, mà đó
chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa
vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả
Diệm Quang.
Khi quí vị trì tụng Thất Phật ra da tức là quí vị
đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được năng lực tự tại. Không
có năng lực tự tại thì quí vị không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều
này.
Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp
này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ. Dùng ấn pháp này khiến cho
mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá ra giá ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là
hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân. Hành quân là một mệnh
lệnh nếu quí vị không tuân hành, có nghĩa là chống lệnh.
Đây là Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung
chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả thiên đàng, chấn động cả
địa giới. Nếu quí vị cần thực hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài chư
thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng
hạn như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả
đất không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma ma. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là
một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn
phải được thành tựu”.
Ma ma là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa,
các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng
thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng,
nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít
người sử dụng được ấn pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng
trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh
đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng
không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói
với họ rằng:
“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại
trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng
cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi
biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan
trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và
nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát,
nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một
người không về, tức là chư vị Bồ – tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên
tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư
vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp đồng.
Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ
túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc
này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử,
chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có
một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông
ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ
đi.
Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm
bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.
Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có
nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có
nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm
nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.
Đây là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị
hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí vị sẽ được sống cùng một
trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào các
loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp
này là đời đời được sống cùng chư Phật.
35. Mục đế lệ
Mục đế lệ là Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức
Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán Thế Âm cầm ở một tay,
còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh bình. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào
tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như
nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có
nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ
đói khát và bản tâm đạt được thanh lương.
Mục đế lệ còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là
giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên Bồ – tát Quán Thế Âm
thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh
khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất như ý. Bề ngoài, chú này dường như
không có gì quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị công phu hành trì ấn pháp này
thành tựu rồi, thì không những quí vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh
khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi
những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương này, họ tự nhiên hồi
tâm hướng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhãn có diệu
dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.
Giọt nước cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm
không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà còn có một
diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát Quán
Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại. Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô
héo nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình,
mà khi được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy
nên chúng sinh là loài hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của
Dương chi thủ nhãn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp.
Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ
đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú
này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ
năng lực của chú này đều được thành tựu. Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ –
la vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng
phải cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần
chú này, không dám trái nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì
Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào,
vị này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú.
37. Thất na thất na
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch
là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như
Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn
dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của
trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ
chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh,
thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh
là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người
ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như
những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải
hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con
đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì,
trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà
để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư
ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị kôhng thể nào biết được rõ
ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ
muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như
thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người
có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh,
không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế
nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong
muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà
chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không
những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng
tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi
vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng
trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó
chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong
tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng
hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục
mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng
này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như
dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau
cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc
phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí
tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như
trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực,
cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí tuệ hiển
hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là
thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ
một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên
đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ
mọi việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà
họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu
muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn
bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong
thì rõ:
-
Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
-
Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt,
thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu
từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
-
Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì
không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu
công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp
này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt
ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn
được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng,
không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó.
Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị
chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy
nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu
cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất
quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới
gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm,
đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn
một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ
đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm
trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì
rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo
cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất liền, lâu
đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta,
chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được
sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa.
Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn
không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi
chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong
lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng
chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí
tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm
câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã
tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là
phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần
rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ
của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều
lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không
còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm
mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt
hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp
xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc
được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang
phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính
thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và
trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông,
là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý,
họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe
họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có
được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội
của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự
ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội
ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng
gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính.
Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp
với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm
ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí
tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai
lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm
điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp.
Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô
minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong
trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là
một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng
thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó
chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh.
Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang
đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao
giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí
tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật
bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng
chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là
biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng
cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào
sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô
minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là
ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví
dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ
dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là
mặt trăng.
Thất na thất na là
“đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn.
Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức
Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình
tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền
cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện
cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về
việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa
đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng
không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật
pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng
lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai
thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi
người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách
hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả
mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh
được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa
hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng
chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích
sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch
trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở
trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành.
Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải
nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì
trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình
vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong
lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi
người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó
cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi
hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị
phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi
tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với
nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát
lời nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên
phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng
ngày quý vị thích làm.
38. A ra sam Phật ra xá lợi
A ra sam dịch là “Chuyển luân
pháp vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường
tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có
thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi
tiết rõ ràng.
Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng
thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn pháp này. Khi
thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên Phật để học hỏi giáo
pháp.
Có rất nhiều cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng
hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là danh hiệu của một vị Bồ
tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng
thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai một ly đi một dặm. Sao
vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả
Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh
hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả.
Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật
thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể gọi đó là
Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm.
Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý
vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn
Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát. Mới đây tôi được xem qua bộ
“Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong kinh này họ đã giảng bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn
sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ
tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không nên xác tín mà không
căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp cho người nghe,
quý vị phải có một lập trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra, còn
không quý vị sẽ phạm sai lầm.
A ra sam là Chưởng thượng hóa
Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.
Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”
Đây chẳng phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả.
Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì người ấy chính là
Bồ tát. Bất luận người nào không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không
phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu
thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá lợi dịch là “giác thân tử”.
Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp, là
pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu,
thì chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế giới
Phật khắp trong mười phương.
39. Phạt sa phạt sâm
Phạt sa, phạt sâm dịch là “Hoan ngữ hoan
tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại trượng
phu” và “Vô thượng sĩ”.
Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp. Khi
hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia thì có thể được làm quan
cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la hán.
40. Phật ra xá da
Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá
lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da,
“xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm
thể quý vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị
có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của
câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý.
Phật ra xá da là nói về bổn thể của
đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát
Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật
A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào quang
để tiếp độ cho người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ
nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ nhãn,
Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu
các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử
liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
41. Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp
như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn
pháp. Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện
đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều
được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn “Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả
là người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi hành giả tác pháp này, thì
ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã
là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều
không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly ngã”.
Hành trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”. Có
thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu
pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch.
42. Hô lô hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô
niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra
đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn khởi lên ý
niệm. Còn trong câu chú Hô lô hô lô hê rị thì vắng bặt sự khởi
niệm khi tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là còn
vọng tưởng. Nếu hành giả không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt
được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người có năng lực Quán Tự Tại. Đó
chính là vị Bồ tát thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách tự
tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công
năng giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì chú này
vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh. Nếu bệnh
không lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi
quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được lành bệnh, là do đã đặt hết
niềm tin vào Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không được lành bệnh, có thể là do quý vị
thiếu lòng tin nơi Bồ tát.
Sự thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho
quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được năng lực như vậy, quý vị
không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô
lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên
ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành,
có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và
người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống
xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có
duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có
niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.
Nói chung có vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp
duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành trì và phát tâm chí thành,
khi uống nước có trì chú vào là liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập nhưng
thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì
chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý vị có tâm chí thành và dù không tu tập
đi nữa, thì khi uống nước đã trì chú cũng có được sự lợi ích. Những người vốn
đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ
tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi
uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực
do thường xuyên trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao.
Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Thế nên bất luận trường hợp nào, có trùng trùng
duyên khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng: “Tôi đã hành trì Bảo
bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại sao chẳng
có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó chẳng phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu
nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực, nên hiệu quả không được
bao nhiêu.
Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú
Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự
trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn
dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một
pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.
Dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một
pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải
thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô
ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh,
thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sanh
được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.
Nếu quý vị khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã
khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma chướng, dù quý vị không
có tâm niệm ngã chấp nhưng rất dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này.
Bệnh nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng. Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có
vấn đề gì khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu bệnh do ma chướng, khi quý vị
chữa trị cho họ có nghĩa là quý vị tuyên chiến với ma vương, nó có thể hãm hại
quý vị. Nếu đạo lực của quý vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh
giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và tạo được đôi chút ảnh hưởng với
chúng, thì chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại quý vị.
Tôi vốn thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có
ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau đó, tôi phải đối đầu với
ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết tôi,
nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 – 60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy
quái này phá hủy. Sau đó, trên đường đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy
quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi, chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành
thức ăn của cá. Từ đó mỗi khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế nên chữa bệnh là cách tốt nhất để kết duyên,
nhưng đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma. Nó có điểm tốt và cũng có
điểm không hay. Nếu quý vị làm việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn
tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị có thể xoay chuyển mọi tình
huống. Còn nếu quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm niệm của chính mình khỏi bốn
tướng trên thì rất dễ rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên với chúng sanh qua
việc chữa bệnh cho họ là một vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.
43. Ta ra ta ra
Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải
không? Ta ra Ta ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh
mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển được.
Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả
các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công
năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
44. Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ Tất lỵ có ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng
mãnh” như trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn luôn chiến thắng,
không hề bị đánh bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt lên
trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát
tường”. Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được sự thắng vượt mọi
chướng ngại, mới có được sự cát tường.
Tôi thường nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm
bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm dõng mãnh, thắng vượt chứ
không bao giờ được thoái thất. Nếu ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa.
Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì? Họ chẳng khác gì một thứ mà người
Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc
thì gọi là “thảo bao”, là cái túi rơm để đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên
hãy nhớ điều này: bất kỳ ai muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải
luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có tâm kiên cố như chùy Kim Cang vậy. Còn
như “thủy bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo nổi.
Tất lỵ tất lỵ là Hợp chưởng thủ
nhãn ấn pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang, sư tử, nhân cùng
phi nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự có tâm dõng
mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn pháp này không phải
là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ
thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã
giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được
no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận
được nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có
người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại. Nhưng không dễ gì gặp
được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.
46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ
Bồ đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”.
Muốn thành tựu giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu không
có giác tâm, thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ. Hành giả trước
hết phải có tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo
nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp.
Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển.
Từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị
phải phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn. Đừng nên dừng lại hoặc lui sụt.
Chẳng hạn như khi quý vị nghe giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được
nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có
vẻ bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng.
Thử xem có nơi đâu trên thế giới này có được một pháp hội tinh tấn như thế này,
ngày nào cũng đến đây để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà
pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi không ngừng như ở đây?
Nên khi đã có duyên ngặp gỡ được pháp hội, quý vị
phải thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận pháp sư giảng đề tài
gì, người nào giảng cũng phải đến nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng
hay và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên
trì đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu ngày chày tháng, chắc chắn quý vị
sẽ thâm nhập được vào dòng đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng
nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý
vị cũng nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười biếng!
Pháp môn này khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp
nay rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên tinh tấn tu học. Sự tinh tấn
chính là “tâm Bồ đề” kiên cố dõng mãnh vậy.
Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì
không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
dạy:
“Vong thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma
nghiệp”.
Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện
pháp như làm việ ma vậy”.
Về bất thối, có ba dạng:
- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng
quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã
chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã
chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị
muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát
nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để
giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát
khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi
giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái
thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi
niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì
càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn
bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua
bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất
từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của
tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm
bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự
niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối
luôn luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo
Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại
nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không
thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là
sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn
ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn
thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì!
47. Bồ đà dạ - Bồ đà dạ
Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm
giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”.
-
Trí là hiểu biết chân chính, là trí tuệ.
-
Giác là sự tỉnh thức.
Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã
giác ngộ đích thực và có được trí tuệ.
Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ
hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”.
Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí
giả”. Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác nhau.
Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết
tròn đầy chân thực (trí).
Tri là cái biết toàn triệt, là giai đoạn trước của
giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp thành tựu rồi thì quý
vị sẽ là người có trí tuệ chân chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý
vị tu tập ấn pháp này thì mười phương chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho
quý vị trong tương lai sẽ chứng được quả vị Phật.
Trong khi đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa
thiền, hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu, như thể có một loài
côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có
gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc ấy, chính chư Phật trong mười
phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu Phật quả trong tương lai.
Nhưng vì quý vị chưa có được thiên nhĩ thông nên không nghe được; vì chưa có
được thiên nhãn thông nên quý vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong mười
phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị.
Thế nên nếu quý vị có phước duyên gặp được, thì đây là một cảm ứng xuất phát từ
công phu hành trì của quý vị. Nhưng quí vị không được khởi tâm mê đắm, hay ngã
mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”.
Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện vì điều này cũng đều là chấp trước.
Dù đây là triệu chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi, thì
cũng trở nên xấu.
Trong chương cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức
Phật trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng xuất phát từ nỗ lực
dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi
diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền
bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này, quý vị phải tự an trú trong trạng
thái “như như bất động”. Cho dù có gặp cảnh giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm
kôhng dao động. Khi tâm không dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ
phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở thành “trí giả” và “tác giả”.
48. Di đế rị dạ
Di đế rị dạ. Hán dịch là “ chánh
lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được.
Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn, không có ngằn mé.
Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh và giúp cho họ được
an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình, thoát khỏi sợ hãi
và tránh xa mọi tai ương.
Đây là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp. Trên
đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu
cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên
âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên mình.
Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng
tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập
ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn
thể mọi loài chúng sanh.
49. Na ra cẩn trì
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền ái”
hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng
đầu trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khó tìm cách bảo bọc,
che chở cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả vị tối cao.
Đây là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi
là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế gian, cứu
giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ có
năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập pháp ấn này thành
tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa
được mọi tai ương, chướng nạn. Nên còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50. Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt ni na. Hán dịch là “Kiên lợi”.
Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước đây
khi giảng về bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này có công
năng hàng phục mọi loài ly, mỵ, võng lượng. Khi quý vị utu tập thành tựu ấn
pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng lượng đều ngoan
ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này rất
oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả
có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.
51. Ba da ma na
Ba da ma na có ba ý: Thứ nhất là
“danh văn” nghĩa là tên của hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới.
Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng khen ngợi công
đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa thành tựu”. Có
nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được thành tựu thật nghĩa và rốt
ráo.
Đây là Bảo tiễn ấn pháp. Nếu quý vị hành
trì ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
52. Ta bà ha
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất
là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa.
Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là “thành tựu”. Khi trì niệm câu
chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị
chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành.
Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành
tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không
bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm
câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý
vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ
khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều
được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha
của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành
tâm và chánh tin. Trì tụng chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa
được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một
cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn
nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và
liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên
tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn
thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là
chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch.
Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là
công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của
hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được
công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai
nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi
lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được
tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong
quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”.
Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”
trong Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng
mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú là không có một niệm chấp trước vào
việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc
đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi
niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo
nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng
nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha.
Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả
các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm
mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm
chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm
ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham
chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán,
tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt,
tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo
kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn
hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng
tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên
ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá,
chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha.
Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ
sáu nghĩa trên.
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha
Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ
nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba
là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ
năm là “sở cung xưng tán”.
Thành tựu đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú
này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc (đốn) được an lành
(kiết), toại nguyện.
Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại
Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi
phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực hành trì tương
ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung thông thì mọi sở
cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu.
Tất đà dạ còn có nghĩa là “thành
biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.
Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều
được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ
việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung xưng tán có nghĩa là mọi người đều đến
khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.
Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma
ha có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự
nghiệp to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong
mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha
Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo
Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập
ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí tuệ và
sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn
cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký ức của chúng ta thường hoạt động theo một lối
riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy. Sau khi đọc được điều
gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của
mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí
nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa từng hành trì Bảo kinh thủ
nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị sẽ đạt
được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan,
là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo
kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô
lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài
có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn
giả A Nan ra đời cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai
mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật
Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh
điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe các vị trưởng lão giảng
lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức Phật giảng
lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của
sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành
tựu.
Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ
tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những
người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.
Ở trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát
phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một tràng phan màu đỏ. Toàn
thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở
trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng kiến và công đức thành tựu viên mãn.
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bà ra dạ
59. Ta bà ha
Tất đà. Hán dịch là “thành tựu
lợi ích”.
Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay
còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”.
Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành giả thành tựu ấn pháp này có
thể sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi ích
cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi thể tánh mà thường được tự tại
và thành tựu vô lượng công đức.
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ”
nghĩa là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang
ý nghĩa đại Từ Bi.
Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp.
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
Ma ra. Hán
dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn
thượng”.
Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn
pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các
thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều diệu dụng.
Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi
dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái,
ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm
cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp
này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường.
Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên
thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu
– ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng
sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không,
bất xả”.
Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là
diệu hữu.
Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ
một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ:
“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như,
thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì,
tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.
A mục khư da còn có nghĩa nữa là “ái
chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng
sanh.
Câu chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của
mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy.
Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp. Khi hành
trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ nơi
đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các chướng nạn về quan
quyền nữa.
Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu
tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”
Không! Là Phật tử, quý vị không được phạm pháp.
Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật pháp rồi, thì làm gì
có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị
bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở
tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
Như quý vị đã biết, thế giới chúng ta đang sống là
thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn
dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”.
Kham nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó
có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta bà này.
Nhẫn ái có nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này
không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh khởi lòng thương yêu mọi
loài nữa.
Thiện thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói
lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng khuyến khích mọi người
hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là
pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng
thành tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành
giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức.
Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi quý
vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt của
nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì
ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt đầu có sự cảm ứng. Khi
thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ cốc,
thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây
ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác
thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của
pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.
Tất la tăng a mục khư da. Ở trong đồ hình mạn đà
la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ tát, người đã dùng vô
số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha là bổn thể của Bồ tát
Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho
chúng sanh.
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là “Kim cang
luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng
có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là “Hàng phục oán
ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi
ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai
trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”.
Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà
vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung
khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng.
Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán
này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ với
ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng
hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới
gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật
ghê rợn.
Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp. Với
Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần
thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời
khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma oán sẽ cung kính
đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy
luật, không dám xâm hủy”.
Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có công năng
hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động.
Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.
Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng
các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một
loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn
động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan tành từng mảnh.
Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một
người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì thành
tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và
tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các loài ma oán.
A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ
thành tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có
gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên
hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện
trắng”.
Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và
thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn
pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì ước nguyện ấy
rất dễ thành tựu như ý.
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra
dạ
73. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế
Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ
tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn
sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74. Ma bà lợi thắng yết ra
da
75. Ta bà ha
Ma bà lợi thắng. Hán dịch là “Đại dõng”,
cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ tát
Quán Thế Âm cũng được gọi như thế.
Yết
ra da. Hán dịch là “sinh tánh”
hoặc là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh
của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng
nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi
loài ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới.
Hành
giả tu tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn
mươi hai ấn pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp
kia đều có đủ trong ấn pháp này.
Quý
vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng
đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia nữa”.
Nếu
quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì
tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích
tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này
trong bốn mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu
được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm
là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở
thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu
tập các ấn pháp này.
76. Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu
này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị
quên, nên tôi sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ
ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được
một lần này nữa lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu
tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn
toàn khác với các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có
nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo.
Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý
báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn câu nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con
nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử tại gia đã quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam bảo.
Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật
trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy
y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng
chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng
trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi
nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi
giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi
giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la,
súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây
Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và phương dưới tất cả là
mười.
Ba đời là quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y
với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời đức Phật dạy được
gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn
(bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo
không chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không
và pháp giới.
Khi nào quý vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì
quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là quý vị đọc được “vô tự
chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh
mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:
“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.
“Vô tự” không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà
chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào
hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị đang tụng
Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang
tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ
Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên
Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp giới.
Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng
tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các
đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng.
Đá ra dạ có nghĩa là “tam”: ba.
Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư
không pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y
và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam
mô a lị da
Nam mô. Hán dịch là “quy y”.
A lị da. Hán dịch là “Thánh
giả”, cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả
các Hiền Thánh Tăng.
78. Bà lô kiết đế
Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”.
79. Thước bàn ra da
Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”.
Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại
tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80. Ta bà ha
Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công
đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.
81. Án tất điện đô
Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi.
Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn
dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn
sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới”
là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi
kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm
vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi
công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.
Chẳng
hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ
vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp,
thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu.
Phạm
vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi.
Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới,
và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy,
nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần
tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.
82. Mạn đà ra
Mạn
đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”,
cũng dịch là “Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành
tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu.
83. Bạt đà da
Bạt
đà da dịch là “Toại tâm viên
mãn”. Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại.
Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ kết hợp
lại với nhau. Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha
với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn),
hoặc nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành
không có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là
sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu
quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không
tin, là vì quý vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84. Ta bà ha
Ta bà ha dịch là “thành tựu”.
Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát
tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà
ra bạt đà da ta bà ha.
Những vị khi làm lễ thế phát xuất gia cũng trì
niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu học Phật pháp sẽ được
như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi
đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn mươi hai thủ nhãn ấn
pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là khoa
nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi không nhắc lại nữa.
Năm
trước, một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị
nghe giảng gần một năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi
nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều
được Bạt đà da ta bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện
của mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không
đồng, nhưng đều viên mãn cả.
Nguyện
cho tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm
thành tựu quả vị Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một
khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện”
rồi.
"The
Great Compassion Heart Mantra"
Namo Avalokitesvaraya Bodhisattvaya
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét